Theo HoREA, trong bối cảnh thị trường bất động sản đang gặp rất nhiều lực cản và suy giảm 2 năm liên tiếp (2018-2019), năm 2020 lại chịu thêm tác động của Covid-19 nên tính chất khó khăn càng trầm trọng hơn.
Thị trường bất động sản TP. Hồ Chí Minh đang gặp khó khăn chồng chất.
Hiện TP Hồ Chí Minh có gần 15.000 doanh nghiệp (DN) hoạt động trong lĩnh vực bất động sản. Trong số gần 9.000 DN lớn của thành phố, số DN bất động sản chiếm đến hơn 30%. Tuy chỉ chiếm 2% trong tổng số DN đăng ký tại thành phố, nhưng DN bất động sản chiếm hơn 70% tổng vốn đăng ký và đóng góp đến 80% đối với khu vực kinh tế tư nhân tại thành phố.
Dù có vị thế quan trọng như vậy, nhưng DN bất động sản vẫn gặp nhiều khó khăn và cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt hơn. Tăng trưởng bình quân của lĩnh vực bất động sản trong giai đoạn 2015-2019 chỉ đạt 4,3%, thấp hơn tốc độ tăng trưởng GRDP và hiện nay tỉ trọng đóng góp trong GRDP cũng thuộc hàng thấp nhất trong 9 ngành dịch vụ chủ yếu của thành phố.
Điều đáng quan ngại là đến cuối năm vừa qua, tổng giá trị hàng tồn kho của DN niêm yết trên sàn chứng khoán lên đến 223.474 tỷ đồng, tăng 38% so với một năm trước đó. Trong số này có đến 24 DN có giá trị hàng tồn kho trên 1.000 tỷ đồng; có 4 tập đoàn có giá trị hàng tồn kho từ 4.200 tỷ đồng đến 7.397 tỷ đồng. Riêng 2 tập đoàn hàng đầu chiếm 63% tổng tồn kho toàn thị trường.
Lượng hàng tồn kho bất động sản tăng lên sẽ trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Hàng tồn kho nằm trong nhóm dự án vướng mắc về pháp lý, bị dừng triển khai, không ra được sản phẩm làm tăng gánh nặng chi phí, lãi vay ngày càng lớn. Còn hàng tồn kho đã ra thành phẩm nhưng chưa bán được sẽ làm mất tính thanh khoản, có thể dẫn đến nguy cơ phá sản.
Hầu hết doanh nghiệp bất động sản niêm yết đều có kết quả kinh doanh sụt giảm do không bán được hàng hoặc không có hàng để bán. Kết thúc năm tài chính 2019, đa số các doanh nghiệp địa ốc niêm yết có mức tăng trưởng doanh thu bình quân 7% và lợi nhuận sau thuế chỉ tăng 11%, thấp hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng 47% của năm 2018.
Nhận định về thực trạng này, HoREA cho rằng, hàng tồn kho theo kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN và trong quá trình phân phối lưu thông sản phẩm là điều bình thường, thậm chí có thể là một lợi thế của DN.
Nhưng tồn kho bất động sản sẽ trở thành gánh nặng cho DN và cho nền kinh tế nếu hàng tồn kho đó là bán thành phẩm như do vướng mắc về pháp lý nên dự án bị dừng triển khai; không ra được sản phẩm làm tăng gánh nặng chi phí, lãi vay… giống như DN bất động sản tại thành phố đang gặp phải. Từ năm 2017 đến nay, tại thành phố có 158 dự án, mặt bằng kinh doanh có sử dụng đất công thuộc diện phải tạm dừng để rà soát.
Đến tháng 3/2019, 124 dự án được vận hành trở lại, nhưng thực tế nhiều dự án vẫn chưa thể được hoạt động bình thường. Kinh doanh sụt giảm liên tục trong 2 năm gần đây, từ đầu năm đến nay lại chịu thêm tác động của dịch cúm Covid-19 nên khó khăn của DN bất động sản càng trầm trọng hơn.
Vì vậy, HoREA cho rằng, để giải nguy cho thị trường bất động sản trước núi hàng tồn kho này, các cơ quan có thẩm quyền của trung ương và địa phương cần giải quyết nhanh các vướng mắc về pháp lý và quy trình thủ tục hành chính.
Hiệp hội cũng kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan trung ương phối hợp với UBND TP Hồ Chí Minh khẩn trương rà soát, sớm có kết luận xử lý các dự án thuộc diện rà soát, thanh tra, để các chủ đầu tư chấp hành.
Nếu tháo gỡ được vướng mắc này, các doanh nghiệp có cơ sở thực hiện các nghĩa vụ tài chính bổ sung với Nhà nước. Mặt khác, doanh nghiệp được tiếp tục triển khai thực hiện dự án sẽ bớt khó khăn, tiếp tục bổ sung sản phẩm cho thị trường, đáp ứng nhu cầu nhà ở cho người dân.
Ngoài ra, HoREA cũng đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường, trong đó đặc biệt cần sớm rà soát, kết luận dự án vướng thanh tra để doanh nghiệp tiếp tục triển khai dự án.